Đề thi thử vào lớp 10 môn ngữ văn đề số 63

Tham khảo đề thi thử vào lớp 10 môn ngữ văn của các trường trên cả nước năm 2012.

I. trắc nghiệm

1. Nội dung chính mà tác giả Phạm Tiến Duật muốn thể hiện trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là gì ?

A. Miêu tả cuộc hành quân khẩn trương của các chiến sỹ lái xe từ Bắc vào Nam

B. Miêu tả những chiếc xe không kính để nói lên cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng hào hùng của đân tộc ta.

C. Thông qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính, tác giả tập trung làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường sơn lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

D. Tất cả các ý trên.

2. Để thể hiện nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật đã sử dụng giọng điệu như thế nào ? Đánh dấu X vào ô vuông các câu đúng :

A. Tự nhiên và ngang tàng.

B. Sôi nổi và tinh nghịch.

C. Lời thơ gần với lời nói chân thực, sinh động thường ngày.

D. Lời thơ chải chuốt, cầu kỳ.

3. Từ mỗi câu thơ ở cột A, hãy nêu nội dung thích hợp vào cột B :

A B
1. Ung dung buồng lái ta ngồi

 

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

 
2. Bụi phun tóc trắng như người già

 

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

 
3.  Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

 

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

 
4.  Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

 

Chỉ cần trong xe có một trái tim

 

 

4. Gạch dưới những từ dùng sai trong các câu sau và tìm từ thích hợp để thay thế.

a) Vào học, cả lớp rất vắng lặng.

…………………………………………………………………………………………………………………

b) Thông qua Truyện Kiều, Nguyễn Du phê bình xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người.

…………………………………………………………………………………………………………………

c) Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã thành lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới.

………………………………………………………………………………………………………………….

5. Giải thích nghĩa của các từ có yếu tố  “đồng” :

a) Đồng âm : ……………………………………………………………………………………..

b) Đồng bào : ……………………………………………………………………………………

c) Đồng chí : …………………………………………………………………………………….

d) Đồng khởi : …………………………………………………………………………………..

e) Đồng dao : ……………………………………………………………………………………

II. tự luận

Hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

 

Đáp án

I. trắc nghiệm

Câu Nội dung trả lời
1 C
2 A, B, C (Đúng) ;       D (Sai)
3 B 1 : Tư thế ung dung, hiên ngang, thái độ coi thường khó khăn, nguy hiểm

 

B 2 : Tâm hồn sôi nổi, trẻ trung, lạc quan của tuổi trẻ

B 3 : Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn

B 4 : ý thức chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước

4 a) Từ sai  : vắng lặng – thay bằng yên lặng

 

b) Từ sai : phê bình – thay bằng lên án

c)  Từ sai : thành lập – thay bằng thiết lập

5 a) Có âm thanh giống nhau

 

b) Cùng huyết thống, nòi giống, ruột thịt

c) Cùng chí hướng, cùng lí tưởng

d) Cùng vùng dậy trong một thời điểm

e) Lời hát dân gian của trẻ em

II. tự luận

Hình ảnh người lính qua hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Bài làm

Lớp cha trước lớp con sau

Đã thành đồng chí chung câu quân hành

(Tố Hữu)

Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng : đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó là anh bộ đội Cụ Hồ.

Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số những bài thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm nhận đầy đủ hơn về hình ảnh người lính.

Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969.

Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh của dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập tới là hai trong những tác phẩm tiêu biểu của mỗi thời kì văn học. Hay sự thể hiện hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ. Người lính trong hai bài thơ này là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt Nam 1945 – 1975 sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.

Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là, người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác với khuynh hướng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái “đời thực” của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết, sâu nặng :

Quê hương anh nước mặn đồng chua

làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí !

Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí. Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ  sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo khó, là cùng chung mục đích, lí tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ...) Một chữ chungkhiến những người vốn xa lạ thành đôi tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí.

Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn – tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ vì sự cảm thông sâu xa tâm tư, nỗi lòng của nhau mà là cái chung lớn lao. Là những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời chiến đấu. Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở thành sáo rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính, người đồng đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tương ứng để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời : “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Chính Hữu :

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày…

Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của những dân ấp, dân lân, “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm -  Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó” (Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu). Những con người ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng cuộc chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn. Bức tượng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí :

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Đó là cuộc đời thực của những người lính nông dân nghèo khổ nơi : nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày… được tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành dáng hình mới.

Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hóa thân khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua 20 năm dưới mái trường Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính không mang đặc điểm như đã nói ở trên tuy vẫn cùng bốn phương hội tụ, với tất cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những người chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong bom đạn :  đã về đây họp thành tiểu đội :Không có kính rồi xe không có đèn, không có mui xe… Bởi vì : Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nên phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, mưa xối xả song :

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim

Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là ta, chúng ta. Tất cả đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm.  Không có kính không phải vì xe không có kính / bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nhưng : Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng……../Bụi phun tóc trắng… cười ha ha / Mưa tuôn… mau thôi / Gặp bè bạn… kính vỡ rồi / Họ không cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ từ trong bom rơi…  họp thành tiểu đội. Nếu hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đồng chí là một bức tượng đài :Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một tổ hợp của những khuôn mặt trai trẻ, hồn nhiên. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong các tiêu điểm của hình tượng người lính – Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu gian khổ đến ngày toàn thắng 1975.

Viết bình luận: Đề thi thử vào lớp 10 môn ngữ văn đề số 63

  •  
Khoá học lớp 2-12 - Tuyensinh247